Sản xuất nhỏ trong ngành tôm Việt Nam 

5

Trong 3 tháng đầu năm, xuất khẩu tôm tiếp tục gặp nhiều khó khăn, giảm 11% về lượng và giảm 16,2% về trị giá so với cùng kỳ năm 2018, đạt 67,7 nghìn tấn với trị giá 611,3 triệu USD. Trong thời gian tới, xuất khẩu tôm được dự báo sẽ tiếp tục chịu sự cạnh tranh mạnh mẽ.

Khó truy xuất nguồn gốc

Khó khăn của ngành tôm đến từ nhiều phía. Điển hình có thể kể đến một số yếu tố của con tôm như: Ấn Độ, Ecuador, Indonesia đang có kế hoạch phát triển nuôi tôm, dẫn đến nguồn cung tăng cao, giá tôm không thể tăng trong những tháng đầu năm … Tuy nhiên, khi đặt vấn đề người Việt Ngành tôm trong bối cảnh kinh tế hội nhập mạnh mẽ như hiện nay, ông Trần Đình Luân, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản (Bộ NN & PTNT) cho biết: Ngành tôm Việt Nam có nhiều lợi thế nhưng cũng phải đối mặt với thách thức lớn là biến đổi khí hậu. Muốn tăng diện tích nuôi tôm thì phải đầu tư khoa học, công nghệ, thiết bị. Quy mô sản xuất nhỏ lẻ hiện chiếm 70 – 80% sản lượng tôm, tình trạng này dẫn đến khó hội nhập và đáp ứng yêu cầu truy xuất nguồn gốc. “Với bối cảnh sản xuất nhỏ lẻ, kém liên kết, khó truy xuất nguồn gốc, hạ tầng nên giá thành sản xuất tôm cao, khiến sức cạnh tranh yếu”, ông Luận nói.

0212_4957_11-13_tom_Baohaiquan
Quy mô sản xuất nhỏ lẻ hiện chiếm 70 – 80% sản lượng tôm

Liên quan đến vấn đề này, ông Lê Văn Quang – Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần Thủy sản Minh Phú cho biết: Điểm nghẽn lớn nhất của ngành tôm là sản xuất nhỏ lẻ. Với sản xuất nhỏ lẻ, nguồn gốc hàng hóa không thể truy xuất được nên không có chứng nhận quốc tế. “Chúng tôi rất khó bán hàng với tình trạng trên. Tôm bán ra thị trường quốc tế bắt buộc phải có chứng chỉ quốc tế. Mỗi thị trường yêu cầu chứng chỉ quốc tế khác nhau. Khi nông dân sản xuất nhỏ lẻ thì không thể có được chứng chỉ đó”, ông Quang nói.

Thúc đẩy liên kết giữa các ngành

Tại Quyết định 79 / QĐ-TTg ngày 18/01/2018 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch hành động quốc gia phát triển ngành tôm Việt Nam đến năm 2025, mục tiêu đặt ra đến năm 2025 là giá trị xuất khẩu tôm đạt 10 tỷ USD; trong đó 8,4 tỷ USD là tôm sú và tôm thẻ chân trắng. Để đạt được những con số này, chúng ta cần phải cố gắng hết sức, đặc biệt là giải quyết vấn đề sản xuất nhỏ lẻ hiện nay.

Ông Trần Đình Luân cũng nêu rõ: Theo dõi bảy mươi bốn chuỗi liên kết sản xuất tôm tại ba tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu và Sóc Trăng cho thấy, lợi nhuận tăng, chi phí đầu tư giảm 10 – 30% và giá bán ổn định. “Liên kết ngành là tất yếu, là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của ngành nông nghiệp. Hy vọng trong thời gian tới, ngành tôm sẽ thử nghiệm chuỗi liên kết hoàn chỉnh từ nguyên liệu đầu vào, nhà khoa học đến doanh nghiệp, ngân hàng … Chúng tôi cũng mong muốn có cơ chế bảo hiểm gắn với chuỗi liên kết để nâng cao thương hiệu và sức cạnh tranh của con tôm Việt Nam “, Ông Luân nhấn mạnh.

Ở góc độ doanh nghiệp, ông Quang phân tích cụ thể hơn: doanh nghiệp đã tìm kiếm giải pháp cho chuỗi liên kết chăn nuôi nông sản từ nhiều năm nay. Thứ nhất, doanh nghiệp mua đất, thuê đất để nuôi tôm nhưng không được. Sau đó, họ thành lập công ty cổ phần để nông dân góp đất nuôi tôm nhưng không được. Cuối cùng, doanh nghiệp Minh Phú chọn giải pháp thành lập công ty cổ phần xã hội. Theo đó, tất cả nông dân sẽ góp đất, chăn nuôi và bán sản phẩm trên chính mảnh đất của mình. Như vậy, một nông dân được coi là vựa tôm của một doanh nghiệp lớn và bài toán truy xuất nguồn gốc để cấp chứng chỉ quốc tế có thể giải quyết được.

Tuy nhiên, ông Quang cũng nhận định, doanh nghiệp gặp khó khăn nhất định khi triển khai liên kết ngành theo hình thức này. Cụ thể, doanh nghiệp xã hội đang vướng quy định của Luật Chứng khoán. “Công ty có cổ phần từ 100 cổ đông trở lên, vốn điều lệ trên 10 tỷ đồng phải hoạt động theo Luật Chứng khoán. Trong khi đó, doanh nghiệp xã hội không bắt buộc nông dân phải góp cổ phần mà tự nguyện chào bán. Khi làm ăn tốt thì họ tham gia, nếu họ không tốt thì họ sẽ bỏ đi. Chúng tôi kiến nghị Chính phủ nên cho rằng doanh nghiệp xã hội không phải chịu sự điều chỉnh của Luật Chứng khoán “, ông Quang nói.

Rate this post